Giải quyết thách thức từ rác thải sinh hoạt
vhdong | 17/06/2022

Để giải quyết thách thức
về rác thải sinh hoạt ngày một lớn về khối lượng và phức tạp về thành phần, Bến
Tre đang tăng cường nhiều giải pháp thu gom, xử lý, xem việc quản lý rác thải
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác bảo vệ môi trường.
* Rác chưa phân loại,
khó xử lý
Phó Giám đốc Sở
TN&MT tỉnh Bến Tre Trịnh Minh Khôi cho biết: Hiện nay, tổng lượng chất thải
rắn sinh hoạt phát sinh trên địa bàn tỉnh là 1.011,62 tấn/ngày; trong đó, khu
vực đô thị phát sinh 300,01 tấn/ngày, chiếm 29,7% và khu vực nông thôn là
711,61 tấn/ngày (70,3%). Nguồn phát sinh rác thải rắn sinh hoạt trên địa bàn
tỉnh chủ yếu từ các hộ gia đình, khu dân cư; các cơ quan, trường học; khu du
lịch, khu thương mại, khách sạn, cơ sở lưu trú; cơ sở y tế; khu vực công cộng
như chợ, công viên, bến xe,…
Trong đó, lượng rác thải
sinh hoạt được thu gom, vận chuyển đến nhà máy xử lý, bãi chôn lấp rác tập
trung khoảng 350 tấn/ngày. Tỷ lệ thu gom, vận chuyển tại khu vực đô thị đạt 93%
(khoảng 280 tấn/ngày); khu vực nông thôn là 55% bao gồm thu gom, vận chuyển về
cơ sở xử lý tập trung là 70 tấn/ngày và hộ gia đình tự thu gom, xử lý là 315
tấn/ngày theo tiêu chí bảo vệ môi trường trong xây dựng nông thôn mới.
Tỉnh hiện có 2 nhà máy xử lý rác thải đang
hoạt động, đó là nhà máy xử lý rác thải Bến Tre với công suất 250 tấn/ngày và
nhà máy xử lý rác tại huyện Thạnh Phú với công suất 100 tấn/ngày; có 1 dự án
đang đầu tư là Nhà máy xử lý rác thải huyện Mỏ Cày Bắc với công suất 20
tấn/ngày; 1 dự án đang thực hiện các thủ tục đầu tư là Nhà máy xử lý rác thải
tại huyện Bình Đại, công suất thiết kế là 60 tấn/ngày.
Trên địa bàn tỉnh có 7 bãi chôn lấp rác thải
tập trung trên địa bàn các huyện với tổng diện tích 11,6 ha. Bao gồm: Bãi rác
An Thạnh tại huyện Mỏ Cày Nam (diện tích 2 ha), bãi rác thị trấn Bình Đại 2 ha,
bãi rác thị trấn Chợ Lách và Bãi rác Vĩnh Thành 0,8 ha, bãi rác Tân Thanh và
Châu Bình 2 ha, bãi rác An Hiệp 4,8 ha. Hiện nay, các bãi chôn lấp này đều quá
tải trong việc tiếp nhận, xử lý rác (trừ bãi rác An Hiện và Bãi rác Châu Bình),
trở thành điểm nóng về ô nhiễm môi trường.
Trong thời gian qua, công tác quản lý phân
loại, thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt còn gặp nhiều khó khăn
như rác chưa được phân loại tại nguồn; thiết bị thu gom, phương tiện vận chuyển
rác không đảm bảo kỹ thuật gây mất vệ sinh; hầu hết các bãi chôn lấp rác đều
quá tải, gây ô nhiễm; không còn quỹ đất để tiếp tục quy hoạch chôn lấp rác với
lượng rác phát sinh ngày một tăng; kêu gọi đầu tư xã hội hóa xử lý rác thải
chưa hiệu quả.
* Đầu tư khu liên hiệp xử lý hiện
đại
Theo Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Bến Tre
Trịnh Minh Khôi, tổng thể lâu dài cho công tác quản lý rác thải là quy hoạch và
đầu tư khu liên hợp xử lý rác thải của tỉnh, từng bước đóng cửa các bãi chôn
lấp rác tại các huyện. Khu liên hợp xử lý rác thải với quy mô, công suất và
công nghệ phù hợp với điều kiện của tỉnh, không gây ô nhiễm môi trường.
“UBND tỉnh đã thống nhất đưa vào Quy hoạch
tỉnh đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 2 khu liên hợp xử lý rác cấp tỉnh,
gồm khu liên hợp xử lý chất thải rắn khu vực kinh tế biển, với diện tích tối
thiểu 20 ha ở xã An Hiệp, huyện Ba Tri; khu liên hợp xử lý chất thải rắn khu
vực trung tâm đô thị, với diện tích 20 ha ở xã An Thạnh, huyện Mỏ Cày Nam. Tỉnh
phấn đấu đến năm 2025, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt tại khu vực đô thị được
thu gom, xử lý trên 95,5% và ở nông thôn là 80%, tỷ lệ phân loại rác thải tại
nguồn đạt 70%. Đến năm 2030, tỷ lệ rác thải rắn sinh hoạt tại đô thị được thu
gom, xử lý trên 98,5% và tại khu vực nông thôn là hơn 90%”, ông Trịnh Minh Khôi
chia sẻ.
Bên cạnh đó, hoàn thiện hệ thống các quy
định, chính sách về quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn tỉnh đảm bảo
phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Xây dựng các mô hình xã hội hóa
trong công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu vực
thành thị và nông thôn. Thành lập các tổ chức hoạt động theo cơ chế tự chủ về
tài chính, quản lý con người, tài sản, có sự đầu tư mua sắm xe chuyên dụng, xe
đẩy thu gom rác để mở rộng địa bàn thu gom, nâng cao tỷ lệ thu gom rác thải.
Cùng với đó, xây dựng kế hoạch và từng bước
triển khai hiệu quả chương trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn;
thúc đẩy giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý chất thải rắn kết hợp với thu
hồi năng lượng nhằm tiết kiệm tài nguyên, hạn chế ô nhiễm môi trường. Cải tạo
nâng cấp các bãi chôn lắp chất thải rắn sinh hoạt không hợp vệ sinh, các khu
vực bị ô nhiễm, suy thoái do chất thải rắn đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường.
Xử lý triệt để, ngăn chặn kịp thời các bãi chôn lấp rác tự phát; từng bước xóa
bỏ các bãi rác cấp xã, bãi rác tạm thay vào đó là đầu tư xây dựng trạm trung
chuyển rác đảm bảo đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
Ngoài ra, huy động mọi nguồn lực đầu tư, tăng
cường xã hội hóa trong công tác thu gom, vận chuyển, tái chế, tái sử dụng chất
thải rắn sinh hoạt. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nhằm nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân về phòng ngừa, giảm thiểu, tái sử
dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn sinh hoạt, rác thải nhựa khó phân hủy,
hình thành lối sống thân thiện môi trường.
Hoàng Ngân