Bảo vệ tài nguyên nước cho phát triển bền vững
admin | 11/08/2022
Nước là tài nguyên đặc
biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước. Vì
vậy, Chính phủ Việt Nam luôn nỗ lực tăng cường và kiện toàn, thể chế, chính
sách trong lĩnh vực tài nguyên nước, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về tài nguyên
nước nhằm góp phần vào tiến trình phát triển bền vững của đất nước cũng như của
thế giới và khu vực.
Không ngừng đổi mới văn
bản chính sách
Dấu ấn quản lý tài
nguyên nước không ngừng được tăng cường và đã có những bước tiến quan trọng mà
việc cải cách ngành nước với việc thành lập Bộ TN&MT để thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, tách chức năng quản lý khỏi chức năng cung
cấp các dịch vụ về nước là một bước đột phá hết sức quan trọng.
Ngày 8/5/2003, Bộ trưởng
Bộ TN&MT đã ban hành Quyết định số 600/2003/QĐ-BTNMT quy định, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý tài nguyên nước. Theo đó,
Cục Quản lý tài nguyên nước là đơn vị trực thuộc Bộ TN&MT có chức năng giúp
Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về tài nguyên nước. Xuất phát
điểm từ những ngày đầu chỉ có 13 cán bộ chuyển từ Bộ NN&PTNT sang, đến nay,
tổng số cán bộ, công chức, viên chức của Cục là 143 người, trong đó, có 46 công
chức, 76 viên chức, 83 đảng viên với 7 Chi bộ trực thuộc Đảng bộ. Đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động của Cục đa phần là cán bộ trẻ, năng
động, được đào tạo bài bản, luôn được trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
và kỹ năng lãnh đạo, quản lý để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Với những nỗ lực cao
nhất, cùng với sự đoàn kết, đồng tâm của các cán bộ, công chức và người lao
động trong Cục, đến nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước
đã tương đối hoàn chỉnh, tạo lập hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ, thống nhất
quản lý tài nguyên nước từ Trung ương đến địa phương.
Tại cấp Trung ương, đến
nay, đã có 63 văn bản được ban hành để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và
triển khai Luật, trong đó, có 12 Nghị định (4 Nghị định sửa đổi, bổ sung), 16
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 35 Thông tư của Bộ trưởng Bộ TN&MT.
Tại các địa phương, đến nay, đã có 54 tỉnh, thành phố ban hành được 357 văn bản
hướng dẫn, thi hành Luật Tài nguyên nước 2012 và các quy định của Nghị định,
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Tập trung quản lý hiệu quả tài
nguyên “vàng trắng”
Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, bảo vệ,
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả, tác hại
do nước gây ra đã được tuân theo chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước. Tài
nguyên nước được quản lý bảo đảm, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý tiết kiệm,
hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc
phòng an ninh.
Hiện nay, cả nước đã có khoảng hơn 24 nghìn
công trình khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước đã được quản
lý từ Trung ương đến địa phương thông qua biện pháp, công cụ cấp phép. Trong
đó, Bộ TN&MT đã cấp 1.787 Giấy phép tài nguyên nước cho các tổ chức và cá
nhân. Ở địa phương, theo số liệu báo cáo, tại 54 tỉnh đã cấp 23.794 Giấy phép
tài nguyên nước cho các tổ chức và cá nhân.
Tài nguyên nước đóng góp cho nguồn thu ngân
sách của Nhà nước thông qua số thu thuế, tiền cấp quyền khai thác, sử dụng nước
của các tổ chức, cá nhân. Triển khai thi hành Nghị định số 82/2017/NĐ-CP của
Chính phủ về tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, Cục Quản lý tài nguyên
nước đã thẩm định, trình Bộ phê duyệt cho 774 công trình với tổng số tiền
khoảng 11.500 tỷ đồng, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và làm thay đổi
nhận thức của cộng đồng đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước
theo hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Cục Quản lý tài nguyên nước đã chủ trì xây
dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 11 Quy trình vận hành liên hồ chứa
trên các lưu vực sông phải xây dựng quy trình bao gồm các lưu vực sông: Ba, Vu
Gia - Thu Bồn, Sê San, Srepok, Mã, Cả, Kôn - Hà Thanh, Trà Khúc, sông Hồng,
Đồng Nai và lưu vực sông Hương. Cùng với đó, Cục đã trình Bộ để Bộ trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục lưu vực sông gồm 392 sông liên tỉnh làm căn
cứ để triển khai các hoạt động quản lý lưu vực sông, phân công, phân cấp quản
lý; Bộ đã ban hành Danh mục lưu vực sông nội tỉnh gồm trên 3.045 sông nội tỉnh;
danh mục nguồn nước liên tỉnh, nguồn nước liên quốc gia (nguồn nước mặt) gồm
735 sông, suối, kênh, rạch, hồ chứa; công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ
lưu các hồ chứa, đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện đối với 555 hồ
chứa, đập dâng của 511 công trình thủy lợi, thủy điện.
Hợp tác quốc tế song phương, đa phương, hội
nhập kinh tế trong lĩnh vực tài nguyên nước được mở rộng, đẩy mạnh. Năm 2014,
Cục Quản lý tài nguyên nước đã hoàn thiện hồ sơ gia nhập Công ước để trình Chủ
tịch nước quyết định việc gia nhập Công ước về Luật Sử dụng các nguồn nước liên
quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy. Việc gia nhập Công ước của Việt Nam
vào đầu năm 2014, với tư cách là thành viên thứ 35, đã chính thức đưa Công ước
về Luật Sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy
sau 17 năm thông qua. Cục luôn tích cực, chủ động tìm kiếm các nguồn tài trợ
quốc tế phục vụ cho công tác xây dựng thể chế, tăng cường năng lực cho hoạt
động quản lý tài nguyên nước. Đến nay, có khoảng 15 dự án quốc tế về tài nguyên
nước đã và đang thực hiện.
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển
trong gần 20 năm, lĩnh vực tài nguyên nước đã và đang từng bước khẳng định vị
thế, vai trò của lĩnh vực quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, có tầm
quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, mỗi vùng
lưu vực sông và mỗi địa phương.
Xuân Hợp