Nhận diện các thách thức trong quản lý tài nguyên nước
admin | 18/08/2022

Trên cơ sở hiện trạng
tài nguyên nước quốc gia, những kết quả đã đạt được trong công tác quản lý,
khai thác sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước trong giai đoạn 2016-2021, Báo cáo
Tài nguyên nước quốc gia giai đoạn 2016-2021 Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa
công bố nhận diện các thách thức trong quản lý tài nguyên nước cần phải tập
trung giải quyết trong thời gian tới.
Đối mặt nguy cơ suy
giảm, ô nhiễm nguồn nước
Theo Báo cáo tài nguyên
nước quốc gia giai đoạn 2016-2021, nguồn nước của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc
vào nước ngoài. Trong các năm gần đây, các quốc gia ở thượng nguồn đã và đang
đẩy mạnh việc xây dựng công trình thủy điện trên lưu vực sông (LVS) Mê Công và
sông Hồng (trên 20 hồ thủy điện lớn) đã và đang là nguy cơ trực tiếp làm suy
giảm nguồn nước chảy vào Việt Nam, đe dọa an ninh nguồn nước của nước ta.
Song song đó, việc gia
tăng khai thác sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn còn có nguy cơ gây ô
nhiễm, thiếu hụt phù sa ở hạ lưu tác động đến hệ sinh thái, suy thoái nguồn
nước của nước ta. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được cơ chế,
chính sách, biện pháp hiệu quả để hợp tác, chia sẻ nguồn nước giữa các quốc gia
có chung nguồn nước.
Về nội tại, nguồn nước
phân bố không đều theo không gian và thời gian. Toàn bộ phần lãnh thổ từ các
tỉnh biên giới phía Bắc đến Tp. Hồ Chí Minh, nơi có 80% dân số và trên 90% hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng chỉ có gần 40% lượng nước của cả nước;
60% lượng nước còn lại là ở vùng ĐBSCL, nơi chỉ có 20% dân số và khoảng 10%
hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Lượng nước trong 3-5 tháng mùa lũ chiếm
tới 70-80%, trong khi đó 7-9 tháng mùa kiệt chỉ xấp xỉ 20-30% lượng nước cả
năm. Phân bố lượng nước giữa các năm cũng biến đổi rất lớn, trung bình cứ 100
năm thì có 5 năm lượng nước chỉ bằng khoảng 70-75% lượng nước trung bình nêu
trên.
Cùng với đó, hiệu quả
khai thác sử dụng nước trong các ngành còn thấp. Hiện nay, mỗi năm cả nước sử
dụng khoảng 81 tỷ m3 nước, trong đó, nước mặt khoảng 77,2 tỷ m3 (chiếm 95,3%
tổng lượng nước khai thác sử dụng trên cả nước cấp cho các ngành dùng nước) và
nước dưới đất chỉ khoảng 3,83 tỷ m3 /năm (chiếm 4,7% tổng lượng nước khai
thác).
Trong khi đó, áp lực
phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu nước gia tăng, mâu thuẫn khai thác, sử
dụng nước của các ngành, địa phương còn phổ biến. Trong vòng 25 năm tới,
nhu cầu sử dụng nước hàng ngày của dân cư ở các khu đô thị dự kiến sẽ tăng gấp
đôi so với khả năng đáp ứng của hệ thống hiện tại. Cùng với sự phát triển
kinh tế vượt bậc, quá trình đô thị hóa nhanh, các hoạt động sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp gia tăng kéo theo các hoạt động xả nước thải nhất là nước
thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn xả vào nguồn nước, đã và đang
tác động và gây sức ép ngày càng lớn, nghiêm trọng đến cả số lượng và chất
lượng nguồn nước các sông, suối.
Song song đó, khả năng
tiếp cận nước sạch, an toàn với chi phí hợp lý cho sản xuất, sinh hoạt còn chưa
cao; rừng đầu nguồn bị suy giảm, tình trạng phá rừng ở Việt Nam đã ở mức báo
động gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn sinh thủy trên các lưu vực sông.
Đặc biệt, biến đổi khí
hậu tác động mạnh mẽ đến tài nguyên nước, rõ rệt nhất ở hai khu vực sản xuất
lúa gạo và sản phẩm thủy sản chủ yếu của cả nước là vùng Đồng bằng sông Cửu
Long và Đồng bằng sông Hồng, dự báo đến 2030 nguy cơ nhiễm mặn có chiều hướng
gia tăng và diễn biến phức tạp.
Cần tăng cường quản trị và nguồn
lực
Báo cáo tài nguyên nước quốc gia giai đoạn
2016-2021 cũng chỉ ra những năm qua, công tác quản lý tài nguyên nước còn khó
khăn do thiếu thông tin, số liệu, cơ sở dữ liệu. Mặc dù tại các Bộ, ngành, địa
phương có các hoạt động điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên nước phục vụ
công tác quản lý theo thẩm quyền được phân công. Tuy nhiên, mức độ điều tra,
đánh giá, tổng hợp thông tin, số liệu còn hạn chế, thiếu đồng bộ và đang phân
tán ở các Bộ, ngành, địa phương, chưa được rà soát, hệ thống gây khó khăn trong
công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
Ngoài ra, dù hiện nay khung pháp lý về quản
trị tài nguyên nước đã tương đối toàn diện, tuy nhiên còn chưa tách bạch về
trách nhiệm giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý nhà nước về tài nguyên
nước.
Về nguồn lực, được sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước, việc đầu tư cho lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên
nước, thủy lợi, thủy điện, bảo vệ và phát triển rừng, cung cấp nước cho công
nghiệp, nước sạch cho sinh hoạt đã được từng bước quan tâm, chú trọng, đã đầu
tư trên 900 công trình thủy lợi quy mô tưới trên 200 ha/công trình, về cơ bản
cấp đủ nước sạch cho các đô thị và 88,5% số dân nông thôn sử dụng nước sinh
hoạt hợp vệ sinh.
Tuy nhiên, công tác đầu tư, bố trí nguồn lực
còn thiếu cân đối; bố trí vốn không đủ, thiếu đồng bộ, còn chưa hiệu quả nhiều
công trình dở dang. Kinh phí bố trí cho điều tra cơ bản tài nguyên nước, quy
hoạch, xây dựng cơ sở dữ liệu, chuyển đổi số… còn thiếu và chưa đồng bộ để giải
quyết đứt điểm những vấn đề đặt ra.
Để giải quyết các tồn tại, thách thức
về tài nguyên nước nêu trên, trong thời gian tới cần có những giải pháp mang
tính tổng thể, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.