Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030: Điều tra chuyên sâu, đánh giá tổng thể địa chất, khoáng sản
vhdong | 25/11/2022

(TN&MT)
- Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt ngày 22/12/2011 (Chiến lược số 2427). Sau 10 năm triển khai
thực hiện (2012 - 2021), phần lớn các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Chiến lược
số 2427 đã thu được những kết quả đáng kể trong việc hình thành “bức tranh tổng
thể” về địa chất khoáng sản Việt Nam đoạn mới.
Ưu tiên điều tra cơ bản
địa chất về khoáng sản
Báo cáo Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên tại buổi làm việc
mới đây, thay mặt Tổng cục Địa chất và
Khoáng sản Việt Nam, ông Lại Hồng Thanh - Phó Tổng cục trưởng cho biết, công tác
điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản sau 10 năm (từ 2012 - 2021) thực hiện đã
đạt được những kết quả đáng kể.
Theo đó, công tác đo vẽ
bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 trên diện tích phần đất
liền đã hoàn thành bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 trên diện tích
điều tra 11 nhóm tờ bản đồ với diện tích là 42.550km2, nâng tổng diện tích đã
thực hiện lên 73% diện tích đất liền. Trong quá trình điều tra, đánh giá khoáng
sản, đã phát hiện, điều tra sơ bộ hàng trăm điểm khoáng sản các loại, khoanh
định nhiều khu vực có tiềm năng, triển vọng khoáng sản để chuyển sang giai đoạn
đánh giá xác định tài nguyên. Điển hình như: quặng sắt khu vực Tân An (Yên
Bái), La Ê (Quảng Nam); graphit ở Bảo Thắng (Lào Cai); vàng ở Tân Uyên (Lai
Châu), Phước Sơn (Quảng Nam); kaolin - felspat ở Bảo Thắng (Lào Cai), Tân Biên
(Tây Ninh); quặng đồng ở Kon Rẫy (Kon Tum); đá ốp lát ở Gia Lai và nhiều nơi
khác. Ngoài ra, các điều tra kết hợp về tai biến địa chất, địa chất môi trường
cũng đã khoanh vùng, dự báo các khu vực trượt lở đất đá, lũ quét, sụt lún, dị
thường phóng xạ…
Trên lãnh hải, Tổng cục
đã hoàn thành điều tra địa chất, khoáng sản, tai biến địa chất, địa chất môi
trường vùng biển Việt Nam độ sâu từ 0 - 100m nước, tỷ lệ 1:100.000 trên diện
tích 18.388km2, hiện đang điều tra trên diện tích 150.000km2 vùng biển Phú
Khánh - Tư Chính - Vũng Mây, độ sâu từ 300 - 2.500m nước (thuộc dự án
"Nghiên cứu, điều tra, đánh giá, khoanh định các cấu trúc địa chất có tiềm
năng và triển vọng khí hydrat ở các vùng biển Việt Nam”) và điều tra đặc điểm
địa chất, địa động lực, địa chất khoáng sản, địa chất môi trường và dự báo tai
biến địa chất vùng biển Bình Thuận - Cà Mau đến độ sâu 300m nước tỷ lệ
1:500.000 trên diện tích 116.050km2.
Đánh giá tổng thể tiềm
năng khoáng sản quan trọng
Đối với công tác đánh giá
tiềm năng khoáng sản, Phó Tổng cục trưởng Lại Hồng Thanh cho biết, từ năm 2013
đến năm 2020, Tổng cục đã triển khai và hoàn thành 24 đề án đánh giá khoáng sản
từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp gồm các loại khoáng sản: than nâu, urani, sắt,
nhôm (bauxit), titan, chì - kẽm, đồng, thiếc, wolfram,
vàng, molipden, khoáng chất công nghiệp (barit, kaolin, felspat, sét chịu lửa,
barit, vermiculit, quarzit,…), đá ốp lát.
Một số đề án đã điều tra,
đánh giá đến độ sâu 500m (hoặc hơn) gồm: đánh giá than nâu vùng Thái Bình - Nam
Định (độ sâu khoan đến 1100m); vàng Yên Sơn (đo địa vật lý đến độ sâu 1000m,
khoan đến độ sâu 450m), đồng ở Bát Xát, Lào Cai (đo địa vật lý đến độ sâu
1000m, khoan đến độ sâu 300m), đồng ở Kon Rẫy, Kon Tum (đo địa vật lý đến độ
sâu 1000m, khoan đến độ sâu 300m).
Trong đó, đã triển khai
các đề án đánh giá tổng thể tiềm năng một số loại khoáng sản như titan sa
khoáng trong tầng cát đỏ ở Ninh Thuận - Bình Thuận - Bắc Bà Rịa - Vũng Tàu;
bauxit, sắt laterit ở Tây Nguyên, điều tra, đánh giá tiềm năng than nâu ở đồng
bằng Sông Hồng; đá hoa trắng ở Bắc Bộ, cát thủy tinh ven biển Trung Bộ, urani
trong một số khu vực, bước đầu có kết quả trong điều tra phát hiện các thân
quặng chì, kẽm ở phần sâu thuộc Việt Bắc.
Cụ thể, Tổng cục đã hoàn
thành các đề án “Điều tra đánh giá tổng thể tiềm năng tài nguyên quặng bauxit,
quặng sắt laterit miền Nam Việt Nam”; "Đánh giá triển vọng quặng thiếc và
kim loại hiếm (Ta, Li, Be) vùng La Vi, tỉnh Quảng Ngãi"; Điều tra đánh giá
tổng thể tiềm năng than phần đất liền bể Sông Hồng (trên diện tích 265km2 khu vực
Kiến Xương - Tiền Hải, Thái Bình), độ sâu điều tra đến 1.200m; Thăm dò quặng
urani khu Pà Lừa - Pà Rồng, Nam Giang, Quảng Nam, độ sâu thăm dò đến 400m; Đánh
giá tổng thể tiềm năng tài nguyên quặng chì - kẽm, độ sâu đến 300m.
Hiện nay, Tổng cục đang
triển khai các đề án: Đánh giá tổng thể tiềm năng đá hoa trắng miền Bắc Việt
Nam; Điều tra, đánh giá tiềm năng khoáng sản cát trắng trên địa bàn các tỉnh từ
Quảng Bình đến Quảng Nam; Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản
đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững
kinh tế - xã hội (một số vùng đã điều tra đến độ sâu 450m), các khoáng sản được
điều tra, đánh giá gồm: đất hiếm, sắt, mangan, đồng, nickel, thiếc, wolfram,
antimon, vàng, khoáng chất công nghiệp, nước khoáng - nóng; Đánh giá tổng thể
khoáng sản vùng Trung Trung Bộ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn
tại những hạn chế, khó khăn nhất định. Công tác lập bản đồ địa chất - khoáng
sản phần diện tích đất liền chỉ đạt khoảng 73%/90% mục tiêu đề ra; điều tra địa
chất - khoáng sản biển mới đạt 42,19%; điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản
mới đạt 39,2%. Tổng đầu tư công tác điều tra cơ bản địa chất đáp ứng khoảng 50%
yêu cầu, trong khi tổng thu từ thuế tài nguyên, tiền cấp quyền khai thác khoáng
sản khoảng 200.000 tỷ đồng.
Do đó, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho rằng, việc
xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược mới thay thế Chiến lược
số 2427 là cần thiết để định hướng chiến lược phát triển địa chất, khoáng sản
và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đưa công tác
điều tra cơ bản địa chất, điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản lên một bước
phát triển mới.