Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng: Hiện thực hóa tầm nhìn “xanh” của Việt Nam
vhdong | 04/01/2023

(TN&MT)
- Chính phủ Việt Nam và Nhóm các Đối tác quốc tế (viết tắt là IPG) đã chính
thức thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng
công bằng với các đối tác quốc tế (JETP).
Tuyên bố chính trị tiếp tục thể hiện tinh thần hợp tác
giữa Việt Nam với và các quốc gia đối tác phát triển do Nhóm các nước Công
nghiệp phát triển G7 đứng đầu nhằm thực hiện các cam kết của
Việt Nam về mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và chuyển đổi năng
lượng từ than sang năng lượng sạch.
Năm 2023, G7 và Việt Nam sẽ phối hợp xây dựng
kế hoạch huy động nguồn lực, chương trình hành động cụ thể nhằm thúc đẩy việc
chuyển đổi năng lượng trên cơ sở nhu cầu của Việt Nam, đảm bảo an sinh xã hội
và lợi ích của các đối tượng bị ảnh hưởng trong quá trình chuyển đổi.
Huy động gói tài chính lên tới 15,5 tỷ USD
Các đối tác quốc tế tham gia JETP với Việt Nam bao gồm: Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Italia, Canada, Nhật Bản, Na Uy và Đan Mạch. Thời
gian tới, nhiều khả năng sẽ tiếp tục có thêm các đối tác quốc tế khác.
Trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN-EU diễn ra tại Bỉ, ngày
14/12/2022, nhân danh Chính phủ Việt Nam, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà
đã cùng đại diện cấp cao của các nước G7 công bố thông qua Tuyên bố chính trị
thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với các đối tác quốc
tế (JETP).
Tuyên bố chính trị thiết lập JETP không phải là văn bản có tính
ràng buộc pháp lý. Đây là văn bản thể hiện quyết tâm chính trị của các quốc gia
đang phát triển như Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng
bằng “0” vào năm 2050 và chuyển đổi năng lượng từ than sang năng lượng sạch,
tái tạo với sự hỗ trợ của các nước G7 và các đối tác quốc tế khác. Nhóm G7 mong
muốn thông qua JETP sẽ điều phối các hoạt động hỗ trợ, hợp tác của Nhóm G7 với
Việt Nam một cách thống nhất, hiệu quả.
Về nội dung chính, Tuyên bố chính trị JETP gồm 26 đoạn, bao gồm
các vấn đề về: Bối cảnh chung toàn cầu; Bối cảnh và kỳ vọng của Việt Nam; Cơ
chế và kế hoạch hỗ trợ Việt Nam; Gói tài chính thực hiện.
Trên cơ sở các cam kết tại COP26 và nỗ lực thể chế hóa trách
nhiệm ứng phó biến đổi khí hậu của Việt Nam, các Bên hoan nghênh những mục tiêu
mạnh mẽ và định lượng của Việt Nam để đạt đỉnh phát thải trước năm 2035, cùng
với ý định đưa mốc thời gian đạt đỉnh phát thải vào năm 2030 nếu nhận được hỗ
trợ mạnh mẽ của quốc tế về công nghệ và tài chính; sau đó, giảm nhanh phát thải
để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Để đạt mục tiêu
này, Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu suất
năng lượng và chú trọng chuyển đổi năng lượng than (nguồn năng lượng không có
biện pháp giảm phát thải). Cùng lúc đó, đảm bảo tính toàn vẹn, an ninh và bình
ổn giá thành năng lượng.
Các Bên khẳng định, Quan hệ JETP là quan hệ đối tác lâu dài,
tham vọng để hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi các-bon thấp và chống chịu với biến đổi
khí hậu, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi công bằng và phi các-bon hóa hệ thống
điện. Đồng thời, phát triển các cơ hội kinh tế mới để hỗ trợ Việt Nam chuyển
đổi hướng tới tương lai phát thải ròng bằng “0”.
IPG sẽ huy động số tiền ban đầu ít nhất là 15,5 tỷ USD trong
vòng 3 - 5 năm tới. Trong đó, 7,7 tỷ USD do IPG huy động từ nguồn tài chính
công, với điều kiện hấp dẫn hơn so với nguồn mà Việt Nam có thể huy động trên
thị trường. Đồng thời, các đối tác sẽ cùng với Chính phủ Việt Nam và Liên minh
tài chính Glasgow vì mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (GFANZ) huy động và thúc
đẩy thêm ít nhất 7,7 tỷ USD tài chính tư nhân.
Tuyên bố cũng chỉ ra, nguồn tài chính này mới chỉ là một phần
nhỏ trong tổng nhu cầu đầu tư của Việt Nam. Thông qua JETP, Việt Nam sẽ tiếp tục
cải thiện khung pháp lý nhằm mở rộng đầu tư công và tư nhân vào Việt Nam. Công
việc này sẽ tập trung vào năng lượng tái tạo và chuyển đổi năng lượng công
bằng, bao gồm các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và củng cố
lưới điện ở Việt Nam, góp phần đạt được các mục tiêu nêu trong Chiến lược quốc
gia về Biến đổi khí hậu đến năm 2050 và NDC của Việt Nam.
Đảm bảo quá trình chuyển đổi
công bằng và bình đẳng
Tuyên bố JETP nêu rõ, một công cuộc chuyển đổi năng lượng đầy
tham vọng sẽ mang tới những cơ hội đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nhằm hỗ trợ
tầm nhìn chuyển đổi năng lượng để Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất các-bon
thấp.
Theo báo cáo của Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân, Hội
đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính, nếu không thực hiện các cam kết về khí
hậu, chuyển đổi năng lượng tại COP26, Việt Nam có thể phải đối mặt với những
rủi ro tiềm ẩn, bao gồm việc hàng hóa xuất khẩu trị giá 245 tỷ USD của Việt Nam
sẽ phải chịu thuế các-bon nếu tất cả các quốc gia trên thế giới đồng loạt áp
dụng các biện pháp thuế tại biên giới, dẫn đến việc nền kinh tế và doanh nghiệp
Việt Nam sẽ tăng chi phí xuất khẩu, nguy cơ mất tính cạnh tranh.
Việt Nam có thể phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng
do các nguồn nhiên liệu hóa thạch cạn kiệt, với chi phí sản xuất cao gấp 6 lần
năng lượng tái tạo trong khi thế giới đang chuyển đổi sang năng lượng sạch.
Điều này có thể đẩy 1,2 triệu người Việt Nam lâm vào cảnh nghèo đói.
Các cơ hội kinh tế và xã hội từ quá trình chuyển đổi các-bon
thấp của Việt Nam bao gồm việc tạo ra việc làm có chất lượng, chuỗi giá trị địa
phương và thu hút đầu tư quy mô lớn từ tư nhân trong nước và quốc tế. Tuyên bố
cũng khẳng định tầm quan trọng của việc định hướng các nhà đầu tư thích ứng
sớm, chuyển hướng tài chính và tránh tài sản bị mắc kẹt ở năng lượng hóa thạch.
Việt Nam đã có ý định đàm phán ngừng hoạt động các nhà máy nhiệt
điện than; tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo và an ninh năng lượng; cải
tiến công nghệ sản xuất, mở rộng và hiện đại hóa mạng lưới truyền tải và phân
phối điện, đồng thời, đảm bảo một sân chơi bình đẳng giữa các đơn vị tham gia
thị trường, sử dụng công nghệ mới nhất để tăng hiệu quả sử dụng năng lượng.
Tuyên bố nhấn mạnh, để quá trình chuyển đổi này diễn ra công
bằng, bình đẳng và bao trùm, cần phải nỗ lực đảm bảo rằng tất cả người tiêu
dùng, người lao động và các cộng đồng bị ảnh hưởng đều được bảo vệ trước các
rủi ro trực tiếp. Họ có thể hưởng lợi từ các cơ hội do quá trình chuyển đổi này
mang lại, để không ai bị bỏ lại phía sau.
Quá trình chuyển đổi cần đi kèm với các chương trình đào tạo
lại, nâng cao kỹ năng, tạo việc làm và các hình thức hỗ trợ khác cho người lao
động trong các lĩnh vực và khu vực bị ảnh hưởng, để họ có thể hưởng lợi từ sự
đổi mới công nghiệp và các việc làm xanh có chất lượng. Đồng thời, đảm bảo tất
cả người dân có khả năng tiếp cận điện với chi phí hợp lý, đặc biệt là các nhóm
bị ảnh hưởng, dễ bị tổn thương và thu nhập thấp.
Các hoạt động tham vấn cần diễn ra thường xuyên, với sự tham gia
của cả các phương tiện truyền thông, các tổ chức phi chính phủ và các bên liên
quan khác nhằm đảm bảo sự đồng thuận xã hội rộng rãi, giúp quá trình chuyển đổi
diễn ra công bằng và bình đẳng.
Trong Tuyên bố, các Bên thống nhất sẽ thành lập Ban Thư ký hoạt
động dưới sự chỉ đạo của cả Việt Nam và IPG vào tháng 4/2023. Quá trình huy
động tài chính sẽ được thực hiện sau khi Kế hoạch huy động nguồn lực JETP Việt
Nam (JETP-RMP) được phê duyệt. Việc xây dựng Kế hoạch phải hoàn thành trước
tháng 11/2023, nhằm xác định các yêu cầu đầu tư và cơ hội phát triển năng lượng
gió, mặt trời, truyền tải, hiệu suất điện, ác quy lưu trữ, xe điện, đào tạo,
tái đào tạo và hỗ trợ việc làm, cũng như các biện pháp khác, hướng tới đạt được
chuyển đổi năng lượng công bằng tại Việt Nam.
Nâng cao vị thế của Việt Nam
Việc G7 và các đối tác quốc tế lựa chọn Việt Nam (cùng với Nam
Phi, Indonesia, Ấn Độ và Senegal) để đàm phán thiết lập JETP là hết sức khách
quan, dựa trên những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam tại COP26. Bởi vì, những cam
kết đó thể hiện tầm nhìn thời đại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong việc nâng
cao vị thế, hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Các cam kết phù hợp với
xu thế của thế giới về phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số và
động lực thúc đẩy chuyển dịch kinh tế Việt Nam sang hướng hiện đại hóa. Đồng
thời, cho thấy Việt Nam có cơ hội tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, nguồn lực về
công nghệ tài chính để mở ra các cơ hội hợp tác nhằm hiện thực hóa mục tiêu
chuyển đổi nền kinh tế xanh và phát triển bền vững.
Việc Việt Nam có thể cùng với các nước G7 và các đối tác quốc tế
thống nhất, thông qua Tuyên bố chính trị và công bố nhân dịp Hội nghị cấp cao
ASEAN-EU vào ngày 14/12/2022 có ý nghĩa quan trọng, khẳng định quyết tâm chính
trị của Đảng, Nhà nước trong việc thúc đẩy chuyển đổi năng lượng, nâng cao vị
thế địa chính trị của Việt Nam, qua đó thu hút thêm nguồn lực cho quá trình
chuyển đổi tại Việt Nam.
Các nội dung trong Tuyên bố chính trị cũng không trái với các
quy định của Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên, phù hợp với chủ trương của Đảng về tái cấu trúc nền kinh tế,
thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng cường hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Các
số liệu được sử dụng trong quá trình đàm phán phù hợp với các Văn bản đã được
Đảng, Chính phủ ban hành, bao gồm Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2022 của Bộ
Chính trị về Chiến lược Phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn
2045; Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050; Đóng góp do quốc
gia tự quyết định 2022 và sắp ban hành như Quy hoạch điện VIII.
Hầu hết nội dung đề xuất của Việt Nam về bảo đảm độc lập, chủ
quyền, tự chủ về năng lượng, an ninh năng lượng, giá cả phải chăng, đầu tư tư
nhân là trên nguyên tắc cùng có lợi. Các lĩnh vực Việt Nam ưu tiên đã được đưa
vào Tuyên bố chính trị, bao gồm: hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp năng lượng
tái tạo, quy hoạch phát triển điện gió ngoài khơi kết hợp nuôi hải sản xa bờ,
hạ tầng nghề cá, thành lập trung tâm năng lượng tái tạo để đào tạo nghề, hỗ trợ
chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực quản trị về năng lượng tái tạo ở
Việt Nam và khu vực, tạo việc làm...
Ở quy mô toàn cầu, JETP được các bên coi là hình mẫu trong việc
huy động nguồn lực, hỗ trợ các nước đang phát triển chuyển đổi năng lượng công
bằng. Việc sớm tham gia JETP, về mặt chính trị, uy tín của Việt Nam sẽ được
nâng trên tầm quốc tế với tư cách là thành viên có trách nhiệm trong việc tham
gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Về mặt kinh tế, nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam có thể
nâng cao sức cạnh tranh, tránh tình trạng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chịu
thuế suất cao nếu bị coi là được sản xuất từ nền kinh tế có phát thải các-bon
cao. JETP sẽ là kênh quan trọng để giúp Việt Nam huy động nguồn lực cho quá
trình chuyển đổi, phục vụ chính lợi ích và nhu cầu nội tại của Việt Nam, đồng
thời Việt Nam có thể tranh thủ được sự dịch chuyển các dòng vốn đầu tư của các
định chế tài chính, các tổ chức tín dụng quốc tế để thu hút nguồn lực đầu tư
cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng
các-bon thấp, chuyển đổi xanh, phát triển bền vững.
Về mặt xã hội, việc thúc đẩy chuyển dịch năng lượng sẽ góp phần
tạo việc làm mới, đồng thời, góp phần hạn chế việc đầu tư giải quyết những vấn
đề liên quan đến ô nhiễm môi trường, chăm sóc y tế.
Trong quá trình xây dựng Kế hoạch thu hút nguồn lực JETP-RMP,
Việt Nam sẽ tiếp tục đàm phán với các đối tác trên nguyên tắc xây dựng nền kinh
tế Việt Nam độc lập, tự chủ; đảm bảo lợi ích và quyền được phát triển của quốc
gia trên cơ sở nguyên tắc công bằng, công lý trong ứng phó với biến đổi khí
hậu; đảm bảo quyền chủ động và tự quyết của Việt Nam trong xây dựng, triển khai
các chiến lược, chính sách về năng lượng, nhất là đảm bảo an ninh năng lượng.
Nội dung kế hoạch phù hợp và tạo thuận lợi cho việc thực thi các cam kết đa phương của Việt Nam, góp phần hạn chế những tác động tiêu cực, tháo gỡ những vướng mắc, thách thức liên quan đến an sinh - xã hội và tăng trưởng kinh tế; tăng hiệu quả các nguồn lực phục vụ phát triển đất nước, tránh để các đối tác lồng ghép các nguồn tài trợ vào các chương trình hỗ trợ phát triển dẫn tới tăng nghĩa vụ thực thi cho Việt Nam. Bên cạnh đó, chú trọng việc đàm phán các ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và các ưu đãi khác liên quan đến nguồn tín dụng thực hiện, tăng tỷ trọng viện trợ không hoàn lại trong tổng vốn hỗ trợ của G7 và các nước đối tác nhằm đảm bảo an toàn nợ công và các quy định về tài chính.