Cần đánh giá tác động khi tăng giá nước sinh hoạt
vhdong | 09/06/2023

(TN&MT) - Theo chương trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội sẽ xem
xét, cho ý kiến về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Đây là dự án luật quan
trọng, được kỳ vọng sẽ góp phần tháo gỡ những vướng mắc, bất cập của luật hiện
hành, hoàn thiện khung pháp lý cho an ninh nguồn nước, đặc biệt là vấn đề bảo
đảm an ninh nước cho sinh hoạt.
Để có thêm ý kiến đóng góp cho việc hoàn thiện dự án Luật Tài
nguyên nước (sửa đổi), phóng viên Báo Tài nguyên và Môi trường đã phỏng vấn
ĐBQH Ma Thị Thúy - Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Tuyên Quang.
Thực tế cho thấy, qua 10 năm triển khai thực hiện Luật Tài
nguyên nước, vấn đề quản lý nhà nước về tài nguyên quan trọng này vẫn còn vướng
mắc, bất cập. Cụ thể, nhiều chuyên gia cho rằng, Luật còn thiếu quy định cụ thể
liên quan đến điều hòa, phân bổ nguồn nước, giám sát chặt chẽ các hoạt động
khai thác, sử dụng tài nguyên nước; vấn đề bổ sung nhân tạo nước dưới đất; vấn
đề giảm thiểu ngập lụt đô thị, định giá đầy đủ giá trị của tài nguyên nước.
Ngoài ra, việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước ở một số
nơi còn chưa nghiêm, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm
chưa được thực hiện tốt; các cơ chế tài chính, chế tài, công cụ kiểm soát, giám
sát chưa hiệu quả; các cơ chế hợp tác, giải quyết các vấn đề nước xuyên biên
giới còn chưa đồng bộ; sự phối hợp chưa đồng bộ, hiệu quả giữa các cấp, các
ngành; một số nội dung của pháp luật có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ với
Luật Tài nguyên nước… Do đó, cần thiết phải sửa đổi Luật Tài nguyên nước hiện
hành.
PV: Thưa
bà! Bà đánh giá thế nào về quá trình xây dựng Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa
đổi) của Chính phủ?
Đại biểu Ma
Thị Thúy: Qua nghiên cứu Tờ trình và Dự thảo Luật Tài nguyên nước
(sửa đổi), tôi đánh giá cao sự chuẩn bị công phu của Chính phủ và các bộ, ngành
liên quan, Dự thảo Luật đã được chuẩn bị chu đáo từ khâu nghiên cứu, xây dựng
đến lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng sử dụng nước, các cơ quan quản lý
nước; tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài nguyên nước.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã nghiêm túc tiếp thu đầy đủ ý kiến
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ý kiến thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban
Khoa học, Công nghệ và Môi trường và của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường
trực các ủy ban của Quốc hội. Việc soạn thảo dự án Luật đảm bảo theo đúng quy
định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
PV: Điều 4
Dự thảo Luật đã bổ sung quy định nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng
tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra tại,
bà đánh giá thế nào về quy định này?
Đại biểu Ma
Thị Thúy: Điều 4 Dự thảo Luật đã kế thừa quy định của Dự thảo Luật
Tài nguyên nước năm 2013, đồng thời, bổ sung nhiều nguyên tắc quản lý, bảo vệ,
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại
do nước gây ra. Các nội dung được bổ sung, chỉnh sửa sẽ là điều kiện thuận lợi
để triển khai thực hiện.
Nội dung này đã được Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường
của Quốc hội thẩm tra và có nhiều ý kiến tham gia đóng góp, tôi đồng tình và đề
nghị Dự thảo cần quy định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Tổ chức lưu vực
sông, đặc biệt là chức năng về điều tra, đánh giá trữ lượng nước, lập quy
hoạch; điều hòa khai thác, sử dụng nước trên lưu vực sông; giám sát khai thác,
sử dụng nước, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái… để nâng cao hiệu quả quản lý tài
nguyên nước lưu vực sông.
PV: Dự thảo
Luật đã quy định các công cụ kinh tế, chính sách và nguồn lực cho tài nguyên
nước; bổ sung quy định liên quan đến cơ chế tài chính nhằm làm rõ giá trị kinh
tế của tài nguyên nước trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo theo nguyên
tắc kinh tế thị trường, bà đánh giá thế nào về các quy định này?
Đại biểu Ma
Thị Thúy: Đối với việc bổ sung quy định liên quan đến cơ chế tài
chính nhằm làm rõ giá trị kinh tế của tài nguyên nước trong phát triển kinh tế
- xã hội, đảm bảo theo nguyên tắc kinh tế thị trường, tôi cho rằng cần nghiên
cứu bổ sung công cụ kinh tế, cơ chế tài chính liên quan đến phân bổ nguồn thu
cho các đối tượng thụ hưởng từ hoạt động bảo vệ nguồn sinh thủy; đồng thời, đối
chiếu, rà soát quy định giá tính thuế tài nguyên nước theo quy định của pháp
luật về thuế, giá và phải căn cứ vào các yếu tố như: mục đích sử dụng, mức độ
khan hiếm của tài nguyên nước, điều kiện khai thác và đặc điểm kinh tế - xã hội
của khu vực, lưu vực sông.
Chẳng hạn như quy định về thuế, phí về tài nguyên nước (Điều
65), đề nghị cần rà soát kỹ nội dung này để phù hợp với Nghị quyết số 07-NQ/TW
ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách
Nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững
và Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030...
PV: Nhằm
tiếp tục nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo tồn tài nguyên nước, hướng tới đảm
bảo an ninh nguồn nước và nâng cao giá trị đóng góp của tài nguyên nước trong
phát triển kinh tế - xã hội, dưới góc độ địa phương, theo bà, Dự thảo Luật cần
tập trung sửa đổi, bổ sung những quy định nào?
Đại biểu Ma
Thị Thúy: Tôi xin góp ý 3 nội dung cần tập trung sửa đổi, bổ sung
vào Dự thảo Luật, cụ thể: Thứ nhất, đề nghị nghiên cứu chỉnh sửa lại các Điều,
Khoản trong Mục 2 Chương II liên quan đến quy hoạch về tài nguyên nước cho phù
hợp với các loại quy hoạch theo Luật Quy hoạch 2017.
Cụ thể, theo Luật Quy hoạch 2017, các quy hoạch về tài nguyên
nước gồm có: Quy hoạch về tài nguyên nước (quy hoạch ngành quốc gia) và 3 loại
quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành là: Quy hoạch tổng hợp lưu vực
sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh; Quy hoạch bảo vệ, khai thác, sử dụng
nguồn nước liên quốc gia; Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước.
Tuy nhiên, trong Dự thảo mới chỉ nhắc đến Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản
tài nguyên nước và Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh là chưa đầy đủ các
loại quy hoạch.
Do đó, đề nghị nghiên cứu chỉnh sửa lại quy định về nội dung của
quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh tại điểm đ khoản 1 Điều 19 và điểm c
khoản 2 Điều 19 cho hợp lý với cấp độ quy hoạch, vì quy hoạch được lập cho thời
kỳ 10 năm, tầm nhìn từ 20 năm đến 30 năm nên việc phải xác định các công trình
xây dựng trong quy hoạch là không khả thi, trong khi phạm vi các công trình
điều tiết, trữ nước, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước là quá
rộng, không cụ thể (chưa rõ công trình phát triển tài nguyên nước là loại công
trình như thế nào) nên sẽ phát sinh vướng mắc khi thực hiện và có thể thường
xuyên điều chỉnh, bổ sung...
Thứ hai, đề nghị nghiên cứu, quy định lại khoản 2, Điều 63
(Phòng, chống sạt, lở lòng, bờ, bãi sông, hồ) cho phù hợp. Vì nội dung đánh giá
tác động tới lòng, bờ, bãi sông, dòng chảy là một trong các nội dung phải có
trong hồ sơ Báo cáo đánh giá tác động môi trường, báo cáo đề xuất cấp Giấy phép
môi trường và được cơ quan có thẩm quyền cấp phép theo quy định là Bộ TN&MT
hoặc UBND cấp tỉnh.
Thứ ba, đề nghị xem xét lại việc quy định nộp tiền cấp quyền
khai thác tài nguyên nước đối với trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác tài
nguyên nước cấp cho sinh hoạt, được quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 63 Dự
thảo Luật. Cần có đánh giá tác động về mặt kinh tế - xã hội, giảm thiểu tác
động đến đời sống, sinh hoạt của người dân do làm tăng giá nước sinh hoạt.
PV: Trân
trọng cảm ơn bà!
Theo nguồn: https://baotainguyenmoitruong.vn